Showing posts with label Bình Luận. Show all posts
Showing posts with label Bình Luận. Show all posts

Wednesday, September 9, 2020

Tâm thư của người Nhật gửi Việt Nam

 Bài viết về văn hóa con người Việt Nam của một bạn du học sinh Nhật. Nội dung bài viết như sau:

“Việt Nam – nhà giàu và những đứa con chưa ngoan

Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của Người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.

Tôi có một nước Nhật để tự hào

Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất”.

Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “có một nước Nhật như thế”.

Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.

Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ. Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào

Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa…Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn.

Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy.

Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân. Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi ?

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày.

Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mun, lọc lừa.

Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi…Vì đâu nên nỗi?

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi?

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm! Thật vậy sao?”.

Có thể thấy, nội dung bài viết này như tâm sự “thay lời muốn nói” cho rất nhiều người Việt đang cảm thấy không hài lòng với lối sống của chính con người Việt…

P/s : Đau..Thấm …

Thursday, October 23, 2014

As a developer, what will you do (or will you be) when you are 40?

I received that question last night that makes me think a lot about it. It is not a simple question, its a big question that I rarely think about.
I think if some of you are being asked that question, you will have different answers. But let me guess, the most answers will be: “I want to become a manager”. Dont get me wrong, I have heard that saying from many people, most are my colleagues who are working on software outsourcing industry playing different roles: developer, business analyst, quality control.
Why do people prefer becoming a manager to a professional on the area they are working on? IMHO, it depends on the current situation of Vietnam. Vietnam is still a developing country and almost companies operating in software development earn money from building software for foreign countries – which is called outsourcing – because it has a benefit of low cost. Being part of outsourcing projects, as a developer, you have to constantly learn various technologies to meet technical specification. That’s good if you – a developer – are learning cutting edge technologies to build software but it’s also not so good that you are assigned to project which uses old technologies and all you have to do is to maintain and to enhance that legacy system. As an example, imagine your skill is .NET but the system have been built using VB6. Or you are very good at ASP.NET 3.5 but the system you are going to build uses ASP.NET1.1 or even worse, standard ASP. As a business analyst, you have to learn various business domains to understand software requirement, some are good since you are having a chance to learn new business domain which might take a very long time to be available in Vietnam such as Healthcare, e-commerce,… but it is not so good that that knowledge cant be applied in Vietnam at the time we finished building that software.  As a quality control engineer, you have to learn from testing Windows application to Web application and even embedded system or mobile platform as well to master tools to perform automation/performance testing. What if one day you find that your learning ability reaches its limitation that you cannot learn any more or not as fast as you ever were able to?
This leaves you behind people/technologies and you will become not suitable for the job. The ‘solution’ to escape that situation is to become a manager! The other reason for the answer – I mean ‘to become a manager’ – is because vnes people still have an ‘old’ thinking from themselves or their parents that becoming a manager – or ‘boss’ – showing that they have a successful career, or life.
But my answer is: ‘I will be coding, if I cannot code anymore, its a disaster’. Why? the reason is simple, I love coding. Funny huh? Being a developer means you are writing code to get the computer does what you want it to do. However, let the computer does what you want it to do is not the last shot, you have to do it beautifully that someone calls it ‘the art of programming’ and you have to be continuously improving youself to become an ‘artist’. Have you ever felt excited when the software you build not only runs smoothly but also the code you write is easy to read, to understand and is extendable? Have you ever felt happy when someone reviewed your code and said: “Its a beautiful code I’ve ever seen. It applies many good practices out there”? If your answer is ‘Yes’ then you know why I love to be a programmer – and I will when I am 40.
I once worked on a project which my client was a group of technical guys (5 ones, as I recalled) who were very passionate on coding. Some of them were almost over 40, one of them was over 50. What really inspired me was they loved coding crazily. Working with them made me love programming and becoming a professional programmer much more. Well, you might say since they live in a modern country and that their job is more respected, and well paid, compared to in Vietnam that makes them not worry about changing their career path to become a manager. I totally agree and respect your opinion. But please, follow your heart, do what you love to do, live your life, not others.
But if you still want to become a manager, please think about this a bit: skills to manage a software project still need to constantly be improved. It’s  obvious that the software world is changing too fast, not only technical people have to learn new technologies day by day but managers also need to learn new development process and methodologies as well how to apply it effectively, learn how to work with the team of members who are passionate, highly self-respected, learn how to inspire and encourage them, show how you recognize and appreciate their effort. This not only makes an effectively team, but also brings great successes.
Source http://huyrua.wordpress.com/2010/07/04/what-will-you-do-or-will-you-be-when-you-are-40/

Saturday, April 19, 2014

Cảm nhận khi lên Windows Phone 8.1

- Có chứ trọng đến phần Cloud, xem mấy file đồng bộ với OneDrive (hồi trước là SkyDrive)
- Nhiều option để chỉnh sữa màn hình chờ
- Có thêm phần hiển thị những thông báo của các app
- Có thêm phần setting nhanh mấy cái cơ bản
- Gõ dc TELEX
- Camera cũng có nhiều option để chụp

Nhưng có vài cái cơ bản cho chức năng phone mà lại thiếu như:
- Duration của 1 cuộc gọi
- Xem số di động của 1 contact vừa gọi (nếu contact đó có 2 số)
- Khi gọi, user gõ số hay tên, nó ko gợi ý những danh sách contact

Sunday, May 31, 2009

Cuộc chiến của các máy tìm kiếm - Nhìn từ một góc độ khác!

Đọc bài viết trên blog thầy Duy, thấy một "chiêu" thật hay của Google làm phân tán sự chú ý vào "quảng cáo" của các đối thủ. Đúng là một tuyệt chiêu cần học hỏi.

James

http://ledduy.blogspot.com/2009/05/cuoc-chien-cua-cac-may-tim-kiem-nhin-tu.html

Như vậy là sau Cuil, Wolfram Alpha, đến lượt Microsoft Bing lại làm xôn xao cộng đồng những người dùng Internet về cuộc chiến với Google. Tại sao Google lại có nhiều "kẻ muốn tấn công" như vậy? Lí do chính đó là lợi nhuận. Thị trường quảng cáo trực tuyến hiện nay chiếm từ 10%-15% tổng giá trị của thị trường quảng cáo nói chung (bao gồm quảng cáo trực tuyến, trên tivi, báo chí, pano, ...). Trong năm 2008, theo IDC thì chi phí quảng cáo trực tuyến toàn cầu lên đến 65 tỉ USD. Theo số liệu vào tháng 03.2009, thì Google chiếm trên 63% số lượng tìm kiếm ở US, với hơn 293 triệu lượt tìm kiếm mỗi ngày. Nói một cách khác, miếng bánh béo bở của thị trường quảng cáo trực tuyến đang được Google "nuốt" phần lớn!

Với mỗi máy tìm kiếm mới ra đời, câu hỏi đầu tiên luôn được mọi người quan tâm là nó có phải là "Google killer" hay không? Trả lời câu hỏi đó, có nghĩa là phải làm nổi bật lên điểm mạnh nhất, điểm khác biệt nhất so với Google hiện tại. Và những điểm nổi bật này, thông thường sẽ được quá trình marketing, PR của các công ty thực hiện, để thu hút sự chú ý của công chúng.

Nếu bạn là Google, chắc chắn là bạn sẽ không ngồi yên để "kẻ thù" (competitor) tấn công mà không có động thái gì. Bên cạnh không ngừng cải tiến chất lượng và tính hiệu quả của hệ thống, những chiêu thức khác ngoài chuyên môn cũng có thể được triển khai.

Theo thống kê của Mark [3], những sự kiện có vẻ như rất "tình cờ" sau của Google, rất làm cho người ta tin rằng Google không ngồi yên trước những đối thủ cạnh tranh.

- Ngày 28.07.2008, Cuil ra mắt với tuyên bố đã đánh chỉ mục hơn 120 tỉ trang web, và cho rằng con số này gấp 3 lần các máy tìm kiếm hiện có. Tuy nhiên, trước đó 3 ngày, 25.07.2008, Google đã tuyên bố trên blog của họ rằng, họ đã đánh chỉ mục hơn 1,000 tỉ trang.

- Ngày 25.02.2009, Cuil giới thiệu tính năng đoạn trích (snippet) cho mỗi kết quả tìm kiếm dài hơn. Ngày 24.03.2009, Google giới thiệu hai cải tiến mới, trong đó có đoạn trích dài hơn.

- Gần đây nhất, ngay trong ngày Wolfram Alpha ra đời, nhấn mạnh tính năng tổ chức dữ liệu để trả lời cho câu hỏi của người dùng, Google cũng đưa ra tính năng tương tự.

- Và cuối cùng, ngay trong ngày 28.05.2009, khi mà Steve Ballmer giới thiệu về cỗ máy tìm kiếm mới Microsoft Bing ở San Diego thì ở gần đó, tại San Francisco, Google giới thiệu về Wave.


Đằng sau các sự tình cờ đó là gì, người ta suy đoán rằng, có hai lí do chính:

- Thứ nhất, Google muốn phân tán sự chú ý của người dùng với các đối thủ cạnh tranh. Với vị thế của Google, thì bất cứ thứ gì Google công bố, đều có sự thu hút nhất định. Đó là lí do mà trong ngày 28.05.2009 vừa qua, sự chú ý tới Bing không hoàn toàn trọn vẹn như mong đợi.

- Thứ hai, Google muốn khẳng định với người dùng rằng, họ vẫn liên tục cải tiến và những gì đối thủ của họ cho là điểm mạnh thì họ cũng có. Do đó, ko có lí do gì để chuyển từ Google sang đối thủ của họ.


Trong một bài phản biện lại các "nghi ngờ" về "động cơ của Google" trong các sự kiện trên, Matt Cutts (nhân viên Google) đã lí giải rằng mọi chuyện đều ngẫu nhiên mà thôi. Ví dụ chuyện Cuil, Matt cho rằng Google đã dự định công bố việc đánh chỉ mục được 1,000 tỉ trang web từ giữa tháng 6, nhưng sau đó công bố này bị hoãn lại hơn 1 tháng. Hay trong chuyện của Wolfram Alpha thì là lí do em bé của blogger ra đời sớm hơn dự định làm bài blog lẽ ra được dự định công bố sau nhưng lại công bố trước và trùng ngày công bố của Wolfram Alpha.

Không ai có thể nghi ngờ một sự thật: những gì đối thủ của họ làm được, Google cũng sẽ làm được! Thậm chí Google còn làm được sớm hơn cả đối thủ của họ (trường hợp của Cuil là một ví dụ). Nhưng nếu là bạn, bạn có tin vào những giải thích về sự "tình cờ" kia không? Tại sao việc công bố kích thước chỉ mục lại bị dời đến hơn 1 tháng, và rất gần với ngày ra đời của Cuil, nhắm đúng vào điểm mạnh mà Cuil muốn "bố cáo" với thiên hạ? Tại sao sự kiện em bé sinh sớm lại đẩy việc công bố tính năng tương tự như Wolfram Alpha đúng vào ngày Wolfram Alpha ra đời. Cũng nói thêm ở đây là tính năng tương tự đó chỉ mới thực hiện được trên 2 tập dữ liệu mà thôi, nghĩa là vẫn chưa đủ hoàn hảo như của Wolfram Alpha. Danny Sullivan thậm chí còn cho rằng, Google đã không chỉ một lần làm như vậy.

Vậy mới thấy, cuộc chiến với Google không đơn giản chút nào. Có những việc tưởng như rất nhỏ, không ai để ý đến, nhưng đều tiềm ẩn những "tuyệt chiêu" để làm yếu đối thủ.

Tham khảo:
1. Quảng cáo trực tuyến
http://vietnambranding.com/thong-tin/chuyen-de-thuong-hieu/6618/Anh-chi-phi-quang-cao-truc-tuyen-tang-manh
http://www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?CatId=35&NewsId=135802#
http://quangbawebsitevn.wordpress.com/2007/12/29/qu%E1%BA%A3ng-cao-tr%E1%BB%B1c-tuy%E1%BA%BFn-s%E1%BA%BD-la-ngu%E1%BB%93n-thu-l%E1%BB%9Bn-c%E1%BB%A7a-microsoft/

2. Thị phần tìm kiếm của Google
http://blog.usaseopros.com/2009/04/15/google-reaches-293-million-hits-per-day-in-march-2009/

3. Thảo luận về chiêu "chơi trội" (steal other's thunder)
http://www.marksonland.com/2009/04/google_likes_to_steal_others_t_1.html
http://www.mattcutts.com/blog/stealing-thunder/
http://www.techcrunch.com/2009/05/28/what-just-happened-thursday-was-supposed-to-be-bing-day/?awesm=tcrn.ch_2oM&utm_campaign=techcrunch&utm_content=techcrunch-autopost&utm_medium=tcrn.ch-twitter&utm_source=direct-tcrn.ch
http://searchengineland.com/did-google-cleverly-upstage-microsofts-bing-20185

Lê Đình Duy

Sunday, April 19, 2009

Đại học VN có thực sự là đại học?

Đọc bài viết "DH VN có thực sự là đại học?", đây là câu hỏi lớn phải không nhỉ? Tại sao DH của chúng ta lại thua kèm rất nhiều các DH trong khu vực lận cận vậy nhỉ? Có phải nó liên quan đến nền kinh tế của đất nước chúng ta ko nhỉ? Cùng suy ngẫm ...

James

------------------------------------------------------------
http://www12.24h.com.vn/news/detail/46/225199/dai-hoc-VN-co-thuc-su-la-dai-hoc.24h?relate_cat=0

Để tạo ra bước ngoặt trong các trường ĐH, để sớm nâng các ĐH thành những trung tâm NCKH thực sự, cần có một chiến lược mang tầm quốc gia với nhiều chủ trương, biện pháp cấp bách, đồng bộ…

Thế giới: ĐH là trung tâm khoa học

Về nguyên lý, trong giáo dục đại học (ĐH), hai nhiệm vụ - nghiên cứu khoa học và giảng dạy, đều quan trọng, tác động với nhau, bổ sung cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau.

Và trong thực tế, nghiên cứu khoa học (NCKH) là một tiền đề không thể thiếu để bảo đảm chất lượng đào tạo. Vì qua nghiên cứu, người thầy mới có thể luôn được nâng cấp trình độ, cập nhật các tri thức mới mẻ trong lĩnh vực chuyên môn của mình, nhờ đó, sinh viên có cơ may được tiếp thu bài giảng bao gồm những kiến thức tiên tiến của thời đại và được tiếp cận các hoạt động thực hành, các kỹ năng NCKH.

Từ chân lý đó, ở tất cả các nước phát triển trên thế giới, các trường ĐH vừa là lò đào tạo trí thức, vừa là nơi sản sinh ra những công trình khoa học, những sáng kiến phát minh góp phần làm giàu có thêm kho tàng trí tuệ, thúc đẩy nền văn minh, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nhân loại. Hơn thế nữa, rất nhiều phát minh lớn, nhiều giải thưởng Nobel cao quý đã ra đời từ các phòng thí nghiệm của các ĐH.

Chẳng hạn, một thí nghiệm nổi tiếng, mang tính kinh điển trong khoa học hạt nhân, tạo ra “phản ứng phân hạch hạt nhân” dưới tác dụng của hạt trung tử (neutron). Thí nghiệm đó được thực hiện tại một phòng thí nghiệm thuộc ĐH Rome (Ý), bởi một nhóm giảng viên dưới sự lãnh đạo của người thầy vật lý, Enrico Fermi, năm 1934.

Và một ĐH khác - ĐH Chicago (Hoa Kỳ), cũng chính GS E. Fermi, tiếp tục mạch công trình nghiên cứu nói trên, năm 1942, đã chỉ đạo xây dựng thành công lò phản ứng hạt nhân đầu tiên, mở đường khai thác nguồn năng lượng hạt nhân khổng lồ phục vụ nhân loại.

Cũng như các ĐH Rome (University of Rome) và Chicago (Chicago University) nói trên, nhiều ĐH danh tiếng khác trên thế giới đều là những trung tâm NCKH với những phòng thí nghiệm nghiên cứu hiện đại, có đội ngũ chuyên gia hàng đầu đã và đang sản sinh ra những phát minh to lớn về các lĩnh vực khác nhau: Khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, kinh tế học, xã hội nhân văn, văn hoá nghệ thuật…

Ở Hoa Kỳ là ĐH Harvard University, Yale University, Massachusetts Institute of Technology.... Ở Vương Quốc Anh là ĐH Oxford University, Cambridge University... Ở Pháp là ĐH Paris University, Collège de Sorbonne…. Ở Nhật Bản là ĐH Tokyo University, Kyoto University….Ở Trung Quốc là ĐH Thanh Hoa, ĐH Bắc Kinh…Trên thế giới là như vậy, lẽ nào ở đất nước ta, các ĐH của ta lại đi ngoài quỹ đạo chung đó, chân lý đó.

Việt Nam: Nhiều ĐH là phổ thông “cấp 4”?

Ở nước ta, khoảng một thế kỷ qua, hàng trăm trường ĐH lần lượt ra đời. Trong những hoàn cảnh rất khó khăn, một số trường đã cố gắng phát triển cả tiềm năng giảng dạy và tiềm năng NCKH, đạt được những thành tựu nhất định trong công cuộc đào tạo đội ngũ trí thức cho đất nước.

Tuy nhiên, thành tựu đó vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội hiện nay. Chất lượng đào tạo ĐH nhiều trường còn thấp. Một trong những nguyên nhân chủ yếu nằm ở tiềm lực và trình độ NCKH non yếu của bản thân các trường ĐH.

Lấy số lượng và chất lượng các bài báo được công bố trên các tạp chí quốc tế làm tiêu chí, chúng ta sẽ thấy nền ĐH nước ta đang nằm phía sau, khá xa, so với ĐH các nước như Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Malaysia.

Cụ thể hơn, có thể so sánh số lượng bài báo công bố vào năm 2004 của hai ĐH khoa học hàng đầu VN (ĐHQG Hà Nội và ĐHQG T/p. HCM) với hai ĐH tương tự của Thái Lan (ĐH Chulalongkorn và ĐH Mahidol).

Con số đó ở hai ĐH của nước ta là 54, còn ở hai ĐH của Thái Lan là 881, như vậy, tính riêng số lượng, “ta” thua kém “bạn”- một nước khu vực, mà GDĐH chưa phải loại mạnh, đến những trên 10 lần!

Từ đó có thể hình dung bức tranh chung của hàng trăm trường ĐH khác trong toàn quốc. Đặc biệt với các trường xa các thành phố lớn, xa các trung tâm nghiên cứu quốc gia, hoặc hàng loạt ĐH mới mở gần đây.

Tình trạng chung của các trường ĐH nước ta là nghèo về thiết bị NCKH, thiếu các nhà NCKH đầu đàn, nguội lạnh không khí NCKH. Nhà trường và các giảng viên ĐH thường xem nhẹ, hoặc chỉ thực hiện một cách hình thức, mang tính đối phó với nhiệm vụ NCKH.

Do đó, khá phổ biến phương pháp thầy giảng- trò ghi, còn sinh viên ít được cập nhật những tri thức hiện đại, ít tiếp cận những kỹ năng NCKH, lúng túng trước những vấn đề cuộc sống đặt ra khi bước vào đời.

Các ĐH như vậy thực ra chẳng khác biệt mấy về chất, so với các trường phổ thông, hoặc như trước nay chúng ta vẫn nói, đó chỉ là các “trường phổ thông cấp 4”.

Với tình trạng nói trên, làm sao chất lượng đào tạo, hay trình độ của sinh viên tốt nghiệp ĐH nước ta có thể đạt được tầm chung của thế giới hiện nay? Điều này, các tổ chức quốc tế như Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã đánh giá.

Theo nguồn số liệu thống kê của WEF, yếu tố “đào tạo và giáo dục ĐH” của VN được đánh giá 3,94 điểm và xếp vào hạng thứ 98, trong tổng số trên 100 nước tham gia khảo sát. Còn theo các chuyên gia của WEF, ở Việt Nam có ba yếu tố - lạm phát, hạ tầng và lao động có trình độ - được liệt vào “những vấn đề đáng lo ngại nhất”. “Lao động có trình độ” ở đây, chính là sản phẩm đào tạo của hệ thống ĐH và cao đẳng.

Sự xếp hạng và đánh giá của WEF nói trên là cảnh báo “đỏ” đối với nền giáo dục ĐH và nói riêng, đối với thực trạng NCKH của phần lớn các trường ĐH nước ta.

24H.COM.VN (Theo VNN)

Thursday, March 26, 2009

2009 chọn chữ nào?

Lâu lâu dành chút thời gian cho thư pháp, bình "loạn" chuyện đời cũng hay. Một năm đầy khó khăn, kinh tế đi xuống, công ty mình cũng xuống theo, tinh thần mình cũng ko vui nổi, cuộc sống cảm thấy lo lo thế nào. Vì vậy, chúng ta cần phải "nhẫn" nhịn, học cách sống xót trong giai đoạn khó khăn này. Đọc bài viết bên dưới để cùng suy ngẫm...

James
=============================
http://vietnamnet.vn/blogviet/2009/01/821707/

Blog Việt - 2009 sẽ là một năm cực kỳ khó khăn. “Bóng đen” của khủng hoảng kinh tế không chỉ che phủ tới từng quốc gia mà đã lan tới từng doanh nghiệp, mọi gia đình và mỗi cá nhân.

Dù không muốn, mà buộc phải chọn chữ NHẪN cho năm 2009!

Khủng hoảng kinh tế, doanh nghiệp cắt giảm quỹ lương, có thể thất nghiệp. Nhẫn là tiết kiệm tiêu dùng, đừng để bần hàn sinh đạo tặc.

Càng khó khăn, càng phải một lòng đi theo minh chủ. Ắt có kẻ dèm pha là xu nịnh. Nhẫn để bỏ ngoài tai những lời ác.

Vì lợi ích chung, phải đề xuất xử lý những việc đụng chạm tới quyền lợi nhiều người. Nhẫn là chịu đựng những lời khó nghe.

Áp lực công việc, các sếp sẽ dễ nóng giận. Nhẫn là chịu đựng ngay cả khi bị oan. Đừng để bụng.

Cuộc sống thay đổi từng ngày. Nhẫn phải theo kiểu Barac Obama. Nhẫn nhưng vẫn phải "Change"

Kinh tế gia đình khó khăn, nợ nần khó trả. Nhẫn để đừng đưa ra các quyết định sai lầm, lún sâu vào nợ.
Ảnh minh họa: Tác giả bài viết cung cấp
Vợ/chồng bất hòa, lỡ buông ra những lời gây uất hận. Nhẫn để đừng làm thêm điều gì tệ hại.

Con lớn đang vào tuổi dậy thì cả tâm-sinh-tính lý đều thay đổi. Nhẫn để nghe hết những điều con nói, đừng vội áp đặt quy chụp.

Con bé thì trong trắng ngây thơ. Nhẫn là bỏ qua mọi chuyện ngoài cổng để tối tối được cười với các con.

Bước vào lứa tuổi suy giảm tình dục. Nhẫn để khắc phục, đừng hoảng.

Nhi vừa bất hoặc. Nhẫn là kiệm lời. Trước uốn lưỡi 3 lần, nay... uốn thêm 1 lần nữa trước khi nói.

Uống kém, dễ say. Nhẫn là biết dừng lại khi thấy mồm "ngứa ngáy".

Phổi yếu, trước thở mạnh che mờ cả nửa mét vuông kính, nay còn độ... 1 bàn tay. Nhẫn để hạn chế hút thuốc. Trừ khi thức khuya viết blog.

Hay nghĩ về chuyện quá khứ, đó là dấu hiệu của tuổi già. Nhẫn đừng nói nhiều chuyện "ngày xưa", nói chuyện về hiện tại và tương lai.

Nhóm máu dễ xúc cảm, rung động. Nhẫn là đừng để phần tình cảm át phần lý trí.

Chữ nghĩa có hồn, kinh lắm, nó có lợi mà cũng dễ gây hại. Khẩu thiệt thì vô bằng, email còn lưu lại. Nhẫn để đừng vội vàng gửi, viết xong hãy để đấy quay sang làm việc khác. Lát sau đọc lại thêm rồi mới send

Lại nghe nói...

Chữ nhẫn có bộ đao. Dù gươm kề cổ, nhẫn được mới là cao

Trong chữ Nhẫn có chữ Tâm bên dưới bộ đao. Nhẫn là phải từ trong tâm

Trong chữ Nhẫn có chữ Khẩu. Tâm nhẫn rồi thì miệng đừng càm ràm gì nữa. Nhẫn nhịn trong lòng đã khó, nhẫn miệng cũng khó không kém!
  • Gửi từ email Vũ Ninh - Blog Sống Chậm: Tôi thích làm việc nhanh để rồi sống chậm!

Wednesday, March 18, 2009

Cuộc chiến không cân sức giữa giới học giả VN và TQ

Khi đọc bài trên blog của NVT, mới thấy NCKH phải theo cái "chuẩn quốc tế" mới được các nhà khoa học nhiều nước nhìn nhận công trình mình có giá trị, cũng là tư liệu có giá trị để có thể "đi cải lý" với các nước khác được như vụ trường sa, hoàng sa chẳng hạn.

VietDoor

Trích bài trên blog của NVT ỏ đây:

Đọc bài này (“’Cuộc chiến’ không cân sức giữa giới học giả VN và TQ”) làm tôi nhớ đến câu chuyện “công bố quốc tế” mà tôi (và vài người khác) đã nêu ra từ lâu trong hoạt động khoa học ở Việt Nam. Sự thật là các nghiên cứu khoa học ở Việt Nam chẳng có ai chú ý, vì đại đa số đều chỉ ta nói cho ta nghe, tức là chỉ công bố trên các tạp chí tiếng Việt. Các tạp chí này đều có đặc điểm chung là chất lượng thấp. Vì chất lượng thấp, nên chẳng ai quan tâm. Vì chẳng ai quan tâm, nên những vấn đề của Việt Nam chẳng ai biết đến. Và, thế là chúng ta thua thiệt dài dài ...

Cái khó khăn là Việt Nam không có những nhà nghiên cứu chịu công bố những lí luận và nghiên cứu của họ một cách nghiêm chỉnh trên các tạp chí quốc tế. Trong mấy mươi năm qua, con số bài báo khoa học về xã hội học từ VN chỉ đếm đầu ngón tay. Mới đây, có vài bài từ một số nhà nghiên cứu trẻ từ Việt Nam, nhưng họ viết theo quan điểm của ... Mĩ. Chúng ta chỉ giỏi Mẹ hát con khen hay, giỏi “nói với nhau”, mà không nói cho người ngoài nghe. Trên báo chí và truyền thông đại chúng, các nhà khoa học ta nói rất nhiều và có khi cũng rất hay, nhưng khi xem xét lại họ có công bố gì trên các tập san quốc tế hay không thì con số gần như là zero. Họ rất nổi tiếng ở nhà, nhưng vô danh ở ngoài. Chẳng biết tình trạng này có phù hợp với câu “khôn nhà dại chợ” không?

Chẳng hạn như chuyện chất độc da cam, ảnh hưởng lớn như thế và nghiêm trọng như thế, mà suốt mấy mươi năm trời chỉ có 4 bài báo khoa học từ Việt Nam, và tất cả 4 bài đều do người Mĩ đứng tác giả đầu! Các nhà khoa học Việt Nam nói oang oang là họ có nghiên cứu, nhưng hỏi công bố ở đâu thì họ chỉ mấy tạp chí ở Việt Nam! Do đó, khi ra tòa, thì tòa chỉ đơn giản tuyên bố “không có bằng chứng”, và thế là vụ kiện thất bại. Hết thất bại này đến thất bại khác. Thất bại không phải vì chúng ta không có chính lí, mà là không có bằng chứng khoa học. Báo chí Việt Nam đăng rất nhiều bài phóng sự đầy cảm tính (đó là nghề của giới báo chí), đưa ra những hình ảnh (chẳng dính dáng gì đến chất độc da cam), thì làm sao thuyết phục được dư luận quốc tế?

Rồi đến chuyện tranh chấp với TQ về vụ Trường Sa và Hoàng Sa, chúng ta cũng chỉ nói cho chúng ta nghe, chứ tài liệu khoa học về chuyện này trên quan điểm Việt Nam trên trường quốc tế thì rất hiếm. Các nhà-gọi-là nghiên cứu xã hội học của Việt Nam thật ra chẳng có tiếng vang gì trên thế giới, vì họ chỉ nói cho người mình nghe. Do đó, nếu một ngày nào đó, chúng ta ra tòa quốc tế với “bọn” TQ, chúng ta ở thế yếu (cũng y chang như vụ chất độc da cam). Hô hào “Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam” có thể làm cho chúng ta cảm thấy có “hào khí”, nhưng không thể thuyết phục được ai. Chúng ta cần lí lẽ chính đáng, cần dữ liệu khoa học, cần dữ liệu lịch sử. Chúng ta có tất cả những dữ liệu đó, nhưng hình như chưa ai “xử lí” dữ liệu một cách có hệ thống và công bố cho dư luận quốc tế biết.

Bài này nói "Việt Nam yếu thế", nhưng tôi nghĩ không hẳn vậy. Cần phân biệt giữa chất lượng và số lượng. TQ có thể có nhiều học giả lên tiếng trên trường quốc tế, nhưng lí lẽ của họ có thể chẳng có chất lượng gì. Do đó, chúng ta cần biện luận với chất lượng cao. Trong khoa học, một bài báo có chất lượng cao trên một tạp chí có uy tín có giá trị gấp trăm lần bài báo xoàng trên các tạp chí dỏm.

Chúng ta cần một thế hệ nghiên cứu xã hội học mới giúp cho Việt Nam hội nhập với cộng đồng quốc tế và có tiếng nói trên trường quốc tế về những tranh chấp giữa nước ta và nước khác.

NVT

http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/6361/index.aspx

"Cuộc chiến" không cân sức giữa giới học giả VN và TQ

Trong đàm phán lãnh hải với Trung Quốc, nếu coi việc nghiên cứu và đưa ra các bằng chứng để xác lập chủ quyền là một mặt trận, thì đã và đang có một cuộc chiến không cân sức giữa giới nghiên cứu của hai nước, với phần thua thiệt thuộc về các học giả Việt Nam.

Sự thua thiệt thể hiện rõ trên các mặt: số lượng học giả, số lượng và diện phổ biến của công trình nghiên cứu, sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, sự tham gia của tư nhân…

Để cất lên tiếng nói khẳng định chủ quyền

Ngày nay, tất cả các học giả về quan hệ quốc tế đều khẳng định rằng: Thời hiện đại, để chiến thắng trong những cuộc đấu tranh phức tạp như tranh chấp chủ quyền, điều kiện cốt yếu là sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, chứ không đơn thuần là ưu thế về quân sự.
Việc quốc tế hóa vấn đề lãnh thổ, lãnh hải và Hoàng Sa - Trường Sa (HS-TS), do đó, là điều Việt Nam không thể không làm. Việc này mở đầu bằng quá trình đưa các quan điểm của phía Việt Nam ra trường quốc tế.

Có ba kênh chính để đưa quan điểm của Việt Nam ra quốc tế.

Thứ nhất là thông qua các tuyên bố ngoại giao, như chúng ta vẫn thường thấy phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao trả lời báo giới: "Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".

Thứ hai là thông qua các tạp chí khoa học quốc tế, các diễn đàn thế giới. Sự xuất hiện những bài viết khoa học, công trình nghiên cứu của phía Việt Nam trên các tạp chí khoa học đầu ngành của thế giới về lịch sử, địa lý, hàng hải, công pháp quốc tế… sẽ cực kỳ có sức nặng trong việc tranh biện.

Thứ ba là thông qua các nỗ lực ngoại giao và truyền thông như ra sách trắng, tổ chức hội thảo quốc tế, giảng bài tại các trường đại học ở nước ngoài, v.v…

Trung Quốc "chiếm sóng"

Trên kênh thứ hai, có thể thấy phía Việt Nam đang yếu thế so với Trung Quốc. Dù không nhiều, nhưng đã có những bài viết khoa học của học giả Trung Quốc về vấn đề lãnh hải đăng trên các tạp chí uy tín của thế giới và khu vực như: Marine Policy, Marine Custom Management, Marine and Coastal Law Journal (các tạp chí về hàng hải và luật biển), American Journal for International Law (tạp chí nghiên cứu luật pháp, của Mỹ), Southeast Asia Studies (tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, của Singapore).

Đây là các tạp chí khoa học đầu ngành của thế giới, nghĩa là uy tín của chúng được thừa nhận trên phạm vi quốc tế. Một bài viết được đăng trên những tạp chí loại này mang lại danh tiếng cho sự nghiệp cá nhân của nhà khoa học.

Quan trọng hơn nữa, nó gây ảnh hưởng lớn đến cộng đồng. Trong ngắn hạn và trung hạn, nó là tiếng nói có sức nặng với giới khoa học quốc tế. Trong dài hạn, nó là nguồn tài liệu tham khảo có tác động đáng sợ.

Về phía các học giả Việt Nam ở trong nước, cũng đã có những bài viết khoa học liên quan tới vấn đề lãnh hải và HS-TS. Tuy nhiên, các bài này chỉ được đăng tải bằng tiếng Việt trên các tạp chí chuyên ngành của Việt Nam (Tạp chí Hán Nôm, Nghiên cứu Lịch sử, Lịch sử Quân sự, Nghiên cứu Phát triển - tạp chí của Thừa Thiên - Huế) . Số lượng bản in hạn chế - 1.000 bản, phát hành trên diện rất hẹp.

Việt Nam… yếu thế

Trung Quốc cũng đã có khoảng 60 cuốn sách về HS-TS, bằng tiếng Trung và tiếng Anh, như Trung Quốc dữ Trung Quốc Nam Hải vấn đề (Trung Quốc và vấn đề biển Nam Trung Quốc, Phó Côn Thành - Thủy Bỉnh Hòa, 2007), Nam Hải chư đảo địa danh luận cảo (Lưu Nam Uy, 1996), Nam Hải chư đảo địa lý - lịch sử - chủ quyền (Lữ Nhất Nhiên chủ biên, 1992)...

Chưa kể, còn hàng chục công trình của các nhà nghiên cứu gốc Trung Quốc ở Đài Loan, Hong Kong, Singapore, Anh, Mỹ.

Việt Nam có vài đầu sách, như Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo HS-TS (Lưu Văn Lợi, NXB Công an Nhân dân, 1995), Chiến lược Biển Việt Nam (Nguyễn Hồng Thao chủ biên, NXB Sự thật, 11/2008)… Nhưng số lượng chỉ đếm trên đầu ngón tay, các sách đều bằng tiếng Việt, phát hành rất ít.

Với kênh thứ ba - thông qua việc tổ chức hội thảo quốc tế, đưa các học giả đi giảng bài tại các trường đại học ở nước ngoài v.v. - thì sự tham gia của giới khoa học Việt Nam càng yếu ớt hơn.
Cộng đồng các nhà khoa học người Việt tại nước ngoài đã có nhiều nỗ lực nghiên cứu để đưa ra các bằng chứng giúp Việt Nam tranh biện trong vấn đề lãnh hải. Chẳng hạn, TS Từ Đặng Minh Thu (ĐH Luật Sorbonne), luật gia Đào Văn Thụy từng đọc bài tham luận tại Hội thảo hè "Vấn đề tranh chấp Biển Đông" (New York, 1998), phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc với nhiều lý lẽ khoa học xác đáng.

Vì đâu giới nghiên cứu Việt Nam yếu thế?

TS Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) nhận xét: "So tương quan lực lượng với Trung Quốc trong chuyện nghiên cứu về lãnh hải, thì các công trình của học giả Việt Nam vừa ít ỏi, manh mún về số lượng, lại vừa không được sự quan tâm, hỗ trợ của xã hội".

Ai cũng biết rằng điều kiện cần để có bài viết khoa học là một quá trình nghiên cứu tập trung cao và kéo dài. Nghiên cứu về vấn đề lãnh hải và HS-TS lại càng khó khăn hơn, nó đòi hỏi rất nhiều công sức, thời gian, kinh phí.

Người nghiên cứu phải có khả năng tiếp cận với các tài liệu cổ bằng nhiều thứ tiếng khó (Hán, Nôm, Pháp, Anh, thậm chí tiếng Latin), phải bỏ chi phí mua tài liệu, đi thực địa, trao đổi tìm kiếm thông tin, v.v... Đổi lại, mỗi bài viết trên các tạp chí của Việt Nam được nhận vài trăm nghìn đồng nhuận bút.

Còn việc đưa bài viết ra tạp chí quốc tế thì gần như không tưởng, bởi thật khó để các nhà khoa học dồn sự nghiệp cho cả một công trình nghiên cứu để rồi không biết… đi về đâu, có được đăng tải hay không. Thiếu kinh phí, khó khăn trong việc tiếp cận các tài liệu "nhạy cảm" là những vật cản lớn. Chỉ riêng việc dịch bài viết sang một thứ tiếng quốc tế, như tiếng Anh hay tiếng Trung, cũng đã là vấn đề.

Một nhà nghiên cứu độc lập, ông Phạm Hoàng Quân, cho biết: "Ở Trung Quốc, việc tuyên truyền về HS-TS và lãnh hải được phân chia thành ba cấp. Cấp thấp nhất là cấp phổ thông, cho quần chúng. Cấp hai và cấp ba là cho các độc giả có trình độ cao hơn và các nhà nghiên cứu chuyên sâu. Như ở Việt Nam thì chẳng cấp nào phát triển cả".

Không có văn bản quy định chính thức, nhưng tài liệu liên quan tới lãnh hải, biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc mặc nhiên được coi là "nhạy cảm", "mật", và một cá nhân khó mà có đủ tư cách để "xin" được nghiên cứu về HS-TS hay chủ quyền đất nước.Ông Quân, với tư cách nhà nghiên cứu độc lập, gặp khó khăn tương đối trong việc tiếp cận các tài liệu khoa học phục vụ cho công việc. Dĩ nhiên là chẳng bao giờ ông được mời tham dự những hội thảo chuyên đề về lĩnh vực mình nghiên cứu - thường chỉ dành cho những nhà khoa học đã có biên chế chính thức ở một cơ quan nhà nước nào đó.Với một cá nhân là như vậy. Với các viện nghiên cứu trực thuộc Nhà nước, tình hình cũng không khả quan hơn. TS Nguyễn Xuân Diện nhận xét: "Về nguyên tắc, phải là cấp trên đặt hàng, cấp dưới đề đạt lên. Nếu Nhà nước không đặt hàng, các cơ quan chuyên môn có khả năng làm cũng e dè không muốn đề xuất. Các cá nhân nghiên cứu độc lập thì không thể có điều kiện thuận lợi về sưu tập tư liệu, điền dã thực địa, công bố kết quả của đề tài".

Không tiếp cận được với các công trình nghiên cứu chuyên sâu đã đành, người dân còn không được giới truyền thông cung cấp thông tin và kiến thức về chủ quyền đất nước. Trong khi, trên thực tế, "Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" - như khẳng định của Bộ Ngoại giao.

Chúng ta có thể làm gì?

Về bản chất, nghiên cứu khoa học là các nỗ lực cá nhân, tuy nhiên, với những vấn đề thuộc diện "công ích" như tranh chấp chủ quyền, thì Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng.

Nhà nước phải đặt hàng giới nghiên cứu, tạo thành một chiến lược lâu dài và bài bản, đồng thời để cho giới truyền thông diễn giải và phổ biến những công trình nghiên cứu chuyên sâu tới quần chúng sao cho tất cả mọi người đều có ý thức về chủ quyền đất nước.

Một số học giả người Việt Nam ở nước ngoài gợi ý rằng, cách tốt nhất là Nhà nước "xã hội hóa" công việc nghiên cứu khoa học, bằng cách tạo điều kiện để xã hội dân sự (tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, hiệp hội, quỹ...) tài trợ cho các dự án khoa học, tạo điều kiện, thậm chí "luật hóa", để người nghiên cứu được tiếp xúc với thông tin khi cần.

Một điểm cần lưu ý là hoạt động nghiên cứu phải mang tính liên ngành, toàn diện, trên mọi lĩnh vực: văn bản học, khảo cổ, địa chất lịch sử, thổ nhưỡng, công pháp quốc tế...Theo quy luật số lớn, số lượng nghiên cứu càng nhiều thì khả năng có những công trình chất lượng càng cao.Sau hết, không thể thiếu nỗ lực công bố các công trình nghiên cứu đó ra diễn đàn quốc tế, nỗ lực diễn giải và phổ cập chúng tới người dân trong nước, cũng như, thông qua chính sách "ngoại giao nhân dân", tới được dư luận quốc tế và cộng đồng Việt Nam tại nước ngoài.

Đoan Trang

84 tuổi vẫn đạp xe đi dạy tiếng Anh

Khi đọc bài này xong mình thấy có "tinh thần" hơn để học tiếng Anh. Hồi giờ cứ nghĩ bộ nhớ mình có giới hạn (dân CNTT mà, nên lúc nào cũng nghĩ "dung lượng có giới hạn) nên thấy học những môn thuộc lòng như Anh văn thật khó, vì trí nhớ mình hay quên, mà nếu càng già (cỡ 80 tuổi như thầy giáo Anh thì chắc chịu thua cái môn này thôi). Ko ngờ thầy giáo anh chỉ 3 năm là lấy được bằng B, C ở cái tuổi 80 i'. Thật bái phục.

VietDoor
===========================
(Dân trí) - Hơn 70 tuổi ông mới cắp sách đi học tiếng Anh. Sau 3 năm miệt mài, ông lấy được bằng B và bằng C tiếng Anh “hết sức ngon lành”. Ở tuổi 84, ông vẫn đạp xe đi dạy ngoại ngữ cho lũ học trò nhỏ ở Mỏ Cày, Bến Tre.
Ông giáo già “mê dạy học” đó là Trần Ngọc Anh (sinh năm 1925, ngụ ấp 5, xã Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre). Ông Anh đã có hơn nửa thế kỷ “hành nghề” dạy học.

Ông Anh bên căn nhà lá đơn sơ cũng là nơi ông dạy tiếng Anh cho bọn trẻ.

Gặp ông, chúng tôi quá đỗi bất ngờ khi hiển hiện trước mắt là một ông già 84 tuổi, tóc đã bạc trắng nhưng vẫn rất mạnh khỏe, nhanh nhẹn và đặc biệt có trí nhớ tốt cũng như đôi mắt còn rất sáng.

Ông Anh vẫn còn nhớ như in những năm tháng tuổi thơ và quá trình đầy khó khăn đến với cái nghề dạy học của mình. Ông Anh kể, từ nhỏ ông đã đi học một chương trình học do người Pháp dạy và cho đến năm 1943 ông tốt nghiệp bằng thành trung tiếng Pháp. Sau đó đi học bằng tú tài nhưng do tình hình lúc bấy giờ khó khăn nên ông không học được Đại học. Tuy nhiên ông vẫn tiếp cận được một số sách báo, kiến thức từ một số người thân quen khác.

Năm 1945, ông được đi học lớp cán bộ tuyên huấn tỉnh ủy Bến Tre và sau đó tham gia kháng chiến đến năm 1954. Lúc này có việc đưa lực lượng đi Bắc chiến đấu nhưng do ông có vợ và 2 con nhỏ nên ông không đi và năm 1955 ông bắt đầu đi dạy học. Ông Anh cho biết, đây là mốc rất quan trọng cho nghề nghiệp của mình lúc đó và cả sau này. Vì lúc này ông cũng là một cán bộ bí mật nhưng được dạy học công khai. Năm 1968 ông liên lạc lại được với cách mạng vì trước đó đã mất liên lạc với lý do an toàn cho ông. Lúc này ông tham gia vào Hội nhà giáo bí mật của thị xã Bến Tre.

Từ đó đến năm 1969, ông vừa dạy học nhưng cũng vừa tự học và ông thi đậu vào Đại học Văn khoa Sài Gòn rồi học Đại học và sau đó tốt nghiệp thì chuyển sang dạy môn Văn cấp 3. Trong giai đoạn 1969-1973, ông là Hiệu trưởng của trường cấp 3 Thạnh Phú - Bến Tre. Năm 1975-1990, ông tiếp tục dạy học và sau đó thì nhà nước cho nghỉ hưu ở tuổi 65, lãnh lương hưu một lần là 7 chỉ vàng (tương đương khoảng 1 triệu 400 đồng tiền thời đó).

Sau khi về hưu, ông Anh về làm vườn cùng vợ để nuôi con cái ăn học. Ông Anh có tất cả 8 người con đều học hết lớp 12. Nhưng do hoàn cảnh còn rất khó khăn cho nên chỉ có 3 người học lên tiếp Cao đẳng và hiện giờ là những giáo viên cấp 2.

Còn riêng ông Anh thì ông bắt đầu đi dạy kèm cho nhiều học sinh vào năm 1995. Ông mở lớp dạy tiếng Anh vỡ lòng (vì trước đó dù ông học tiếng Pháp là chính nhưng ông cũng được học 2 năm tiếng Anh nên ít nhiều ông cũng biết tiếng Anh) tại nhà và cho vài đứa trẻ trong xóm.

Ông Anh tâm sự: “Mình cũng phải nghiên cứu giáo án dạy sao cho bọn trẻ tiếp nhận nhanh nhất. Mình dạy cũng là để noi gương tự lực, yêu nghề, biết chữ nghĩa thì phải gởi lại cho lớp trẻ sau này chứ già rồi chết mang xuống mồ uổng lắm”.

Không chỉ dạy học, ông Anh còn là một “nhà thơ”.

Ông Anh dạy lớp vỡ lòng tiếng Anh cho đến năm 1999 thì ông lại đi học thêm tiếng Anh. Lúc bấy giờ, ông cũng đã 74 tuổi nhưng “sáng ông làm thầy giáo, tối làm học trò” trong suốt 3 năm trời. Tối nào ông cũng đạp xe gần 10 cây số từ nhà ở xã Tân Phú Tây (Mỏ Cày) đến Trung tâm ngoại ngữ Bến Tre (thị xã Bến Tre) để học tiếng Anh.

Ông cười nói: “Lúc đó, nhiều thầy cô giáo và nhiều người đến học đáng tuổi con cháu của tôi rất bất ngờ khi thấy một ông già hơn 70 tuổi nhưng vẫn còn có thể đi học”. Sau 3 năm “miệt mài kinh sử” ông Anh cũng lấy được bằng B và bằng C tiếng Anh “hết sức ngon lành” ở cái tuổi mà “không biết ngày mai ra sao”.

Hiện giờ, ông Anh đang dạy cho gần 20 em học sinh lớp vở lòng, lớp 6, lớp 8, lớp 9 môn tiếng Anh ở các xã Phước Mỹ Trung, Tân Phú Tây. Ông cho biết, lâu lâu cũng dạy cho các em cấp 3 nhưng số này là rất ít vì thời gian rất hạn chế. Ông cũng cho biết thêm, dạy cho các em nhưng mình cũng thu chút ít tiền học phí để lo cho tuổi già.

Khi chúng tôi hỏi về sức khỏe ở cái tuổi hơn 80, ông Anh bộc bạch là ông thường xuyên tập thể dục để giữ gìn sức khỏe và từ ngày hành nghề dạy học thêm cho đến nay ông chưa một lần bị ốm đau hay tuổi già hành hạ những khi trái gió trở trời. Quả thật, ông Anh còn rất khỏe, mắt còn sáng để đọc rành rọt từng câu chữ một bài báo nào đó, ông vẫn còn rất nhanh nhẹn khi đi xe đạp đây đó. Ông cho biết, thời gian của ông hiện giờ là “rất kín” vì phải dạy nhiều chỗ nên từ 6g30 sáng cho đến 19g tối hàng ngày là không thể gặp ông ở nhà.

Nhiều em học sinh từng học tiếng Anh với ông giờ cũng có rất nhiều người thành công như có em đang học Đại học Sư phạm Đồng Tháp, Đại học Cần Thơ… Những em này ông Anh thường dạy từ lớp vỡ lòng cho đến cả cấp 3 môn tiếng Anh.

Ông tâm sự, còn khỏe thì còn đi dạy, chừng nào đi không nổi thì thôi chứ ông nhất quyết không chịu “gác kiếm” nghề dạy học của mình. Nhiều học trò của ông cho biết, ông rất ít khi bỏ dạy và nếu có nghỉ thì đa số là do các em có việc riêng nên xin ông nghỉ.

Không chỉ dạy học, ông Anh còn là một “nhà thơ”. Sau khi về hưu, ông cũng làm thơ khá nhiều nói về quá trình đến với nghề dạy học, rồi luyến tiếc những ngày tháng đã qua, rồi những việc thế sự ở đời. Thơ của ông cũng được đăng trên các tạp chí văn nghệ huyện, tỉnh Bến Tre. Và đương nhiên sự nghiệp giáo dục được ông đặt lên hàng đầu như trong bài thơ “Giã biệt” của ông có đoạn: “Về dưới mái tranh dừa mát rượi / Nâu sồng, thanh đạm vậy mà vui / Sống nghĩa là cho, cho nhân nghĩa / Cho mầm non thêm nhánh thêm chồi”. Đó cũng là mong muốn của ông Anh, nhưng ở cái tuổi 84 thì không biết ông còn có thể “cho…” đến khi nào? Một tấm lòng giáo dục rất đáng được trân trọng.

Ông cho biết, hiện ông đang làm hồ sơ để xin được cấp trợ cấp như cho một giáo viên về hưu nhưng vẫn chưa được xã xem xét.

Huỳnh Hải


http://dantri.com.vn/c25/s25-313456/84-tuoi-van-dap-xe-di-day-tieng-anh.htm